Thiết kế và chế tạo USS_Carpenter_(DD-825)

Thiết kế

Carpenter có chiều dài chung 390 foot 6 inch (119,02 m), mạn tàu rộng 40 foot 10 inch (12,45 m) và mớn nước sâu 19 foot (5,8 m).[3] Trọng lượng choán nước khô là 2.182 tấn Anh (2.217 t),[4] 2.500 tấn Anh (2.500 t) tiêu chuẩn và 2.550 tấn Anh (2.590 t) khi đầy tải.[3] Hai turbine hơi nước công suất 60.000 mã lực càng (45.000 kW) cho phép nó đạt tốc độ tối đa 32 hải lý trên giờ (59 km/h; 37 mph).[5] Khi hoàn tất, dàn vũ khí chống ngầm của Carpenter bao gồm hai dàn rocket chống ngầm Alpha, một bệ súng cối chống ngầm Hedgehog xoay được, bốn ống phóng ngư lôi cùng hai đường ray thả mìn sâu và sáu máy phóng mìn sâu.[6] Vũ khí phòng không bao gồm hai tháp pháo 3 inch (76 mm) nòng đôi, ban đầu trang bị pháo 3 inch/50 caliber và sau này được thay thế bằng kiểu 70 caliber Mark 26.[5][7]

Lớp phụ Carpenter

Vào thời kỳ đầu của giai đoạn Chiến tranh Lạnh, Hải quân Hoa Kỳ cần có những tàu khu trục chống ngầm tiên tiến để phát triển chiến thuật nhằm đối phó với những tàu ngầm nhanh tương tự như tàu ngầm Kiểu XXI của Đức Quốc Xã trong Thế Chiến II, trang bị động cơ diesel và ống hơi mà Liên Xô sẽ nhanh chóng chế tạo với tính năng tương đương. Vì vậy Tư lệnh Tác chiến Hải quân quyết định sẽ hoàn thiện bốn chiếc lớp Gearing chưa hoàn tất theo xu hướng tàu khu trục chống ngầm chuyên dụng. Hai chiếc, Carpenter và Robert A. Owens (DD-827), sẽ là những “tàu diệt tàu ngầm” tiên tiến hoạt động thay thế cho những tàu chống tàu ngầm chuyên biệt như Norfolk (DL-1); trong khi hai chiếc khác, Epperson (DD-719)Basilone (DD-824), sẽ hoàn tất như những tàu khu trục hộ tống đơn giản hơn.[5][8]

Lớp phụ Carpenter bao gồm tám chiếc lớp Gearing (mang ký hiệu lườn DDK) được cải biến để phục vụ trong vai trò thay thế tạm thời cho những “tàu tuần dương diệt tàu ngầm” chuyên dụng như là chiếc Norfolk; những cải biến nhấn mạnh đến thiết bị điện tử tiên tiến và vũ khí chống ngầm hơn là vũ khí phòng khôngngư lôi. Carpenter trang bị súng cối chống tàu ngầm Hedgehog trên bệ xoay được; hai dàn rocket chống ngầm Alpha, ngư lôi chống tàu ngầm cũng như thiết bị phản công ngư lôi, mục tiêu giả kéo theo và hệ thống sonar được cải tiến.[1][2][9]

Chế tạo

Carpenter được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Consolidated Steel CorporationOrange, Texas vào ngày 30 tháng 7 năm 1945. Nó được hạ thủy vào ngày 28 tháng 9 năm 1945; được đỡ đầu bởi bà Donald M. Carpenter, vợ góa Thiếu tá Carpenter.[10][11] Hợp đồng chế tạo con tàu bị tạm dừng vào ngày 30 tháng 1 năm 1946, rồi được tái tục vào ngày 21 tháng 2, nhưng lại tạm dừng một lần nữa vào ngày 21 tháng 10, khi lườn tàu được kéo đến Căn cứ Hải quân Algiers, Louisiana.[10] Sau khi Hải quân phát sinh nhu cầu cần có những tàu khu trục chống ngầm chuyên dụng, con tàu được cho chuyển đến xưởng tàu của hãng Newport News Shipbuilding vào ngày 6 tháng 11 năm 1947 để được hoàn tất như một tàu khu trục chống ngầm (DDK) thuộc lớp phụ mang tên nó, và được xếp lại lớp với ký hiệu lườn mới DDK-825 vào ngày 28 tháng 1 năm 1948.[2] Carpenter nhập biên chế tại Xưởng hải quân Norfolk, Norfolk, Virginia vào ngày 15 tháng 12 năm 1949 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân James B. Grady.[1][10]